Trường Trung học phổ thông Quốc gia Chu Văn An | |
---|---|
Tên khác | Trường Bưởi, Trường Chu |
Khẩu hiệu | Yêu nước, Cách mạng, Dạy tốt, Học giỏi |
Thông tin chung | |
Loại hình | Trường Trung học phổ thông |
Thành lập | 1908 |
Tổ chức và quản lý | |
Hiệu trưởng | Lê Mai Anh |
Giáo viên | 135 (năm học 2005-2006)[1] |
Học sinh | khoảng 2400 (năm học 2005-2006)[1] |
Thông tin khác | |
Địa chỉ | Số 10 phố Thụy Khuê, phường Thụy Khuê, quận Tây Hồ |
Vị trí | Hà Nội, Việt Nam |
Điện thoại | +84-24-38233139 |
Website | http://c3chuvanan.edu.vn |
Trường Trung học phổ thông Quốc gia Chu Văn An (còn được gọi là Trường Chu Văn An, Trường Bưởi, Trường Chu hay trước kia là Trường PTTH Chuyên ban Chu Văn An) là một trường trung học phổ thông công lập ở Hà Nội. Được thành lập từ năm 1908, cho đến nay Chu Văn An là một trong những trường phổ thông lâu đời và có truyền thống nhất của nền giáo dục Việt Nam.
Được người Pháp thành lập với tên chính thức Lycée du Protectorat (Trường Trung học Bảo hộ) nhằm đào tạo nhân viên cho bộ máy cai trị của họ tại Bắc Kỳ, trường lại thường được biết tới với tên Trường Bưởi, vốn được các học sinh dùng để thể hiện lòng yêu nước của mình. Năm 1945, trường được đổi tên thành Quốc lập Trung học hiệu Chu Văn An dưới thời Chính phủ Trần Trọng Kim (tháng 4 năm 1945) và giữ cái tên này từ đó cho tới nay. Cơ sở của trường ban đầu được đặt tại làng Thụy Khuê (nay là phường Thụy Khuê) bên cạnh hồ Tây, sau một thời gian phải sơ tán đi nhiều nơi do hoàn cảnh chiến tranh, trường chuyển về địa điểm cũ từ năm 1955 và cố định ở đó đến hiện tại.
Giai đoạn 1908 - 1945[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 9 tháng 12 năm 1908, Toàn quyền Đông Dương Klobukowski ra quyết định thành lập Collège du Protectorat (Trường Thành chung Bảo hộ - tương đương trường cấp II hiện nay) trên cơ sở sáp nhập Trường Thông ngôn Bờ sông, Trường trung học Jules Ferry Nam Định và lớp Sư phạm (Cours normal) phố Pottier (nay là phố Bảo Khánh). Năm 1931, trường được nâng cấp thành một lycée (tương đương cấp trung học phỏ thông hiện nay) - Lycée du Protectorat (Trường Trung học Bảo hộ).[2] Tuy nhiên do trường được xây dựng trên đất làng Thụy Khuê (thời Hậu Lê là nơi đặt điện Thụy Chương[3]) ở vùng Kẻ Bưởi, ven hồ Tây nên người dân vẫn gọi là trường Bưởi. Trường Bưởi là cái tên mà các học sinh có tinh thần phản kháng lại người Pháp dùng khi đề cập đến trường nhằm không gọi cái tên chính thức người Pháp đặt.[4]
Cuối năm 1943 do Chiến tranh thế giới thứ hai lan rộng, trường phải sơ tán một phần về Tu chủng viện Phúc Nhạc (Ninh Bình) và phần còn lại vào Thanh Hóa, mãi đến giữa năm 1945 mới quay lại Hà Nội.[5] Tuy vậy số lượng học sinh của trường vẫn tăng đều trong khoảng thời gian từ 1937 (190 học sinh) đến 1944 (424 học sinh).[6] Sau khi Nhật đảo chính Pháp, ngày 12 tháng 6 năm 1945, Khâm sai Bắc Bộ Phan Kế Toại ra quyết định đổi tên trường thành Quốc lập Trung học hiệu Chu Văn An - lấy theo tên vị danh sư Chu Văn An dưới thời nhà Trần và cử giáo sư Nguyễn Gia Tường làm hiệu trưởng, đây là hiệu trưởng người Việt đầu tiên của trường Bưởi - Chu Văn An. Tên Trường Chu Văn An được giữ từ ngày đó đến nay, dù có lúc phải sơ tán, phải chia đôi trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.
Sau khi ra lệnh đóng cửa trường Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1907, người Pháp mở trường Trung học Bảo hộ theo mô hình giáo dục Pháp với mục đích đào tạo công chức trung-cao cấp người Việt cho bộ máy cai trị,[7] nhưng cả Bắc Kỳ khi đó chỉ có trường Bưởi là lycée dành cho học sinh người Việt vì lycée Albert Sarraut là của học sinh Pháp, họ lấy rất ít học sinh Việt (đây cũng là đối thủ chính của trường Bưởi trong thời gian này cả về thành tích học tập lẫn thể thao,[8]) và mãi sau mới thêm mấy trường trung học nữa ở Hải Phòng, Nam Định,... Vì vậy nơi đây đã là cái nôi của lớp trí thức trẻ người Việt, một năm trường tuyển ở cả Bắc Kỳ đúng 120 chỉ tiêu[9] (và tỉ lệ học sinh của toàn Bắc Kỳ khi đó cũng thấp nhất nước, khoảng 1 học sinh/10.000 người dân,[10]) đậu vào trường Bưởi trong thời gian này được gọi là cả một tự hào lớn lao, học trò ra trường đi vào khắp các ngành kinh tế - văn hóa, những người đại diện phần đông là xuất sắc. Không chỉ có học sinh người Việt, trường Bưởi còn là nơi học tập của một số học sinh Lào và Campuchia trong đó phải kể tới Souphanouvong và Kaysone Phomvihane. Học phí thời gian này chừng 4 đồng Đông Dương một tháng, nên vấn đề giành học bổng để học tập là một vấn đề rất quan trọng.[4]
Tuy nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ không đề ra mục tiêu giáo dục tinh thần dân tộc, các học sinh trong trường đã thông qua những hành động cụ thể đi ngược lại chủ trương ban đầu đó. Họ tổ chức bãi khóa đòi ân xá nhà yêu nước Phan Bội Châu hay để tang Phan Chu Trinh, hưởng ứng phong trào Việt Minh, tham gia vào các nhóm luyện võ cổ truyền và truyền nhau các lời chào hỏi yêu nước học được từ thầy dạy võ của mình,[4] cũng như xung đột với các cộng tác viên trường Albert Sarraut vốn học dành cho tầng lớp thượng lưu...[4] Một số học sinh đã sớm tham gia các phong trào độc lập dân tộc như Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Phạm Văn Đồng.
Giai đoạn 1945 - 1954[sửa | sửa mã nguồn]
Sau Cách mạng tháng Tám trường phải học tạm ở thị xã Hà Đông vì trường phải dùng làm nơi đóng quân của quân đội Tưởng Giới Thạch. Đến đầu năm 1946, trường chuyển về Việt Nam Học xá (tức Đông Dương Học xá trước đó, nay là Đại học Bách khoa Hà Nội). Sau kỳ nghỉ hè 1946, trường lại chuyển về một trường trung học nữ Pháp (bây giờ là Tòa nhà Bộ Tư pháp).[11]
Khi Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất bùng nổ, trường Chu Văn An được chia làm hai phân hiệu, một phân hiệu chuyển về vùng kháng chiến Đào Giã - Phú Thọ do thầy giáo Trần Văn Khang làm hiệu trưởng, phân hiệu thứ hai ở lại Hà Nội. Trong những năm Hà Nội bị tạm chiến, nhà trường bị binh đoàn xe tăng Pháp chiếm đóng, nên thầy và trò phải tạm trú tại trường nữ sinh Đồng Khánh (nay là trường Trưng Vương) ở phố Hàng Bài, sau lên Cửa Bắc chung với trường Sư phạm Đỗ Hữu Vị cũ (nay là trường Phan Đình Phùng). Sau ngày giải phóng Thủ đô tháng 10 năm 1954, trường Chu Văn An mới lại trở về địa điểm ban đầu cạnh hồ Tây.[11]
Trong 9 năm chiến tranh, rất nhiều học sinh Chu Văn An đã gia nhập tự vệ và bộ đội Việt Minh. Nhiều người sau đó trở thành cán bộ cao cấp của chính quyền như Nguyễn Xiển,[12]Phan Anh,[13]... Một số sau này trở thành tướng lĩnh như Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, Thiếu tướng Nguyễn Đôn Tự...
Giai đoạn 1954 - 1986[sửa | sửa mã nguồn]
Vào thập niên 1950 vì thiếu giảng viên, do sau Hiệp định Genève 1954, một số các giáo viên học sinh di cư vào miền Nam Việt Nam, chính phủ có yêu cầu Pháp cung cấp một số giáo sư như ông bà Gérard Tongas sang thỉnh giáo ở trường Chu Văn An.[14]
Trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam, vì Không quân Mỹ đánh phá Hà Nội, trường lại phải sơ tán đi nơi khác một lần nữa, lần này là về Khoái Châu (Hưng Yên). Rất nhiều con em cán bộ tập kết miền Nam cũng đã học tập tại trường.
Nhiều học sinh Chu Văn An sau đó đã cầm súng chiến đấu ở chiến trường miền Nam, nhiều người[15] đã trở thành liệt sĩ và được phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân như liệt sĩ - bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm, liệt sĩ Nguyễn Văn Chư (học sinh miền Nam, được truy tặng danh hiệu Anh hùng). Nhiều học sinh và cả giáo viên của trường đã tham gia chiến đấu trong các binh chủng không quân, phòng không chống lại các cuộc không kích của Không quân Hoa Kỳ, trong đó có những người được phong anh hùng như Nguyễn Tiến Sâm, Vũ Xuân Thiều.[16]
Cho đến trước năm 1986, trường Chu Văn An là trường có lớp chuyên Toán duy nhất của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, nơi đã đào tạo nhiều thế hệ học sinh chuyên Toán giành thành tích cao trong các cuộc thi Học sinh giỏi Quốc gia, các kì thi Olympic Toán Quốc tế[17] và sau đó đã thành công trên nhiều lĩnh vực, tiêu biểu như GS-TSKH Nguyễn Hữu Việt Hưng, chủ nhiệm bộ môn Đại số tuyến tính trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, PGS-TS Trương Gia Bình, tổng giám đốc công ty FPT, PGS-TS Đào Tiến Khoa, giám đốc Trung tâm tính toán cơ bản, Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân.
Từ năm 1986 đến nay[sửa | sửa mã nguồn]
Từ năm 1986, các giáo viên và học sinh nòng cốt của trường được Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội cử sang xây dựng trường chuyên mới của Hà Nội, trường Trung học phổ thông chuyên Hà Nội - Amsterdam. Do đó, Chu Văn An mất vị trí dẫn đầu về chất lượng giáo dục ở Hà Nội. Từ năm 1977 đến năm 1993, trường Chu Văn An chia sẻ cơ sở vật chất với trường cấp III Ba Đình theo hình thức một trường buổi sáng, một trường buổi chiều, hai trường hợp nhất làm một từ tháng 1 năm 1993.
Ngày 17 tháng 2 năm 1995, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ra quyết định xây dựng trường Chu Văn An trở thành một trong 3 trường trung học phổ thông trọng điểm quốc của Việt Nam. Cùng với trường Quốc học Huế và trường chuyên Lê Hồng Phong Thành phố Hồ Chí Minh, trường Chu Văn An bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn đầu tư cơ sở mạnh mẽ cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên, tiến tới kỉ niệm 100 năm ngày thành lập.
Ngày 6 tháng 11 năm 2004, trường Chu Văn An đã được nhận bằng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia Việt Nam. Lễ kỉ niệm 100 thành lập trường được tổ chức vào hai ngày 16 và 17 tháng 5 năm 2008.[18]
Danh sách hiệu trưởng[sửa | sửa mã nguồn]
Thời gian | Hiệu trưởng | Ghi chú |
---|---|---|
1914-1918 | Muss | |
1925-1926 | Lombriger | |
1936-1939 | Léon Autigeon | |
1940-1945 | Perruca | |
1944-1945 | Dizes | Giám học phân hiệu Chu Văn An sơ tán ở Phú Nhạc |
Tháng 6-8 năm 1945 | Nguyễn Gia Tường | Được bổ nhiệm sau khi Nhật đảo chính Pháp Hiệu trưởng người Việt đầu tiên |
Tháng 8-9 năm 1945 | Dương Quảng Hàm | Hiệu trưởng do Việt Minh bổ nhiệm Hiệu trưởng đầu tiên trong nước Việt Nam độc lập |
1948-1951 | Phạm Xuân Độ | Hiệu trưởng trường Chu Văn An tại Hà Nội thuộc Pháp |
1951-1953 | Vũ Ngô Xán | Hiệu trưởng trường Chu Văn An tại Hà Nội thuộc Pháp |
1953-1954 | Mai Phương | Hiệu trưởng trường Chu Văn An tại Hà Nội thuộc Pháp |
1945-1954 | Trần Văn Khang | Hiệu trưởng trường Chu Văn An tại vùng Đào Giã thuộc Việt Minh |
1954-1958 | Phạm Quang Hiếu | |
1958-1965 | Hoàng Hùng | |
1965-1968 | Hoàng Xuân Hoài | |
1985-1990 | Nguyễn Đức Lưu | |
1984;1990 | Vũ Thái Bình | |
1990-1993 | Trần Thúy Lan | |
1993-1997 | Phạm Đình Đậu | Hiệu trưởng khi trường hợp nhất với trường Ba Đình |
1997-2008 | Đinh Sĩ Đại | |
2008- 2014 | Chử Xuân Dũng | |
2014- nay | Lê Mai Anh | |
Nguồn: Phòng truyền thống Trường Trung học phổ thông Chu Văn An |
Cơ cấu tổ chức[sửa | sửa mã nguồn]
Trường được tổ chức với mô hình ban giám hiệu điều hành và quản lý chung với hiệu trưởng là Lê Mai Anh và hiệu phó ông Lê Văn Dũng. Công tác giáo dục được phân chia thành 12 tổ bộ môn riêng biệt: Toán học, Vật lý - Kỹ thuật công nghiệp, Hóa học, Sinh học - Kỹ thuật nông nghiệp, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân, Tiếng Anh, Tiếng Pháp-Nhật, Tin học và Giáo dục thể chất. Ngoài ra còn các phòng ban thực hiện công tác phục vụ vận hành trường gồm: Văn thư, Thí nghiệm, Thư viện, Bảo vệ, Quản trị, Lao công và Y tế.
Thi tuyển[sửa | sửa mã nguồn]
Theo quy định của Sở Giáo dục - Đào tạo Hà Nội thì trường Chu Văn An cùng trường Hà Nội - Amsterdam là hai trường trung học phổ thông có hệ thống lớp chuyên của Sở, vì vậy học sinh tốt nghiệp lớp 9 muốn vào học tại hai trường này ngoài việc phải tham gia kì thi vào lớp 10 chung cho các trường trung học phổ thông chuyên và không chuyên trực thuộc Sở, còn phải tham gia kì thi chuyên chung của hai trường. Trên địa bàn Hà Nội (sau khi mở rộng tháng 8 năm 2009), đây là hai trong số bảy trường trung học phổ thông có kì thi tuyển đầu vào, các trường còn lại là Hệ thpt Chuyên của Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội, trường thpt Chuyên, Đại học Sư phạm Hà Nội, trường thpt Chuyên Ngoại ngữ, trường thpt Chuyên Sơn Tây và trường THPT Chuyên Nguyễn Huệ.
Kì thi tuyển gồm ba môn bắt buộc là Toán, Văn và Ngoại ngữ điều kiện. Các thí sinh đăng ký thi tuyển vào các lớp chuyên phải thi thêm môn chuyên tương ứng. Điểm xét tuyển sẽ là tổng điểm ba môn Toán, Văn, Ngoại ngữ (mỗi môn lấy hệ số 1) cộng với điểm môn chuyên nhân đôi (hệ số 2), thí sinh lấy từ cao xuống thấp đến hết chỉ tiêu của lớp chuyên. Các thí sinh chỉ đăng ký xét tuyển vào các lớp nâng cao sẽ thi hai môn Toán, Văn và lấy điểm xét tuyển là tổng điểm hai môn này.[19] Thông thường diện dự tuyển của hai trường chỉ bao gồm học sinh có hộ khẩu Hà Nội nhưng kể từ năm học 2008 - 2009, trường Chu Văn An được phép tuyển mở rộng học sinh của toàn miền Bắc (từ Thanh Hóa trở ra) với điều kiện học sinh đó phải đoạt giải trong kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh.[19] Chỉ tiêu tuyển sinh lớp 10 năm học 2010-2011 của trường Chu Văn An là 605 học sinh gồm 245 chỉ tiêu cho lớp chuyên và 360 chỉ tiêu cho lớp chất lượng cao.[20]
Kì thi tuyển thông thường diễn ra vào cuối tháng 6 hàng năm, kết quả được thông báo nửa tháng sau đó. Năm học mới khai giảng từ ngày 25 tháng 8 và bế giảng vào ngày 23 tháng 5 của năm sau.
Thi tuyển công chức[sửa | sửa mã nguồn]
Sinh viên tốt nghiệp đại học muốn làm việc trường THPT Chu Văn An phải qua các bước sau:
(1) Đối với các ngành sư phạm:
Bước 1: Có bằng tốt nghiệp đại học chính quy. Theo quy định của Luật Giáo dục 2005:
Điều 77. Trình độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo
1. Trình độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo được quy định như sau:
- Có bằng tốt nghiệp trung cấp sư phạm đối với giáo viên mầm non, giáo viên tiểu học;
- Có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm hoặc có bằng tốt nghiệp cao đẳng và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với giáo viên trung học cơ sở;
- Có bằng tốt nghiệp đại học sư phạm hoặc có bằng tốt nghiệp đại học và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với giáo viên trung học phổ thông.
- Có bằng tốt nghiệp trung cấp nghề, cao đẳng nghề hoặc là nghệ nhân, công nhân kỹ thuật có tay nghề cao đối với giáo viên hướng dẫn thực hành ở cơ sở dạy nghề;
- Có bằng tốt nghiệp đại học sư phạm hoặc có bằng tốt nghiệp đại học và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với giáo viên giảng dạy trung cấp;
- Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với nhà giáo giảng dạy cao đẳng, đại học; có bằng thạc sĩ trở lên đối với nhà giáo giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận văn thạc sĩ; có bằng tiến sĩ đối với nhà giáo giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận án tiến sĩ.
2. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề theo thẩm quyền quy định về việc bồi dưỡng, sử dụng nhà giáo chưa đạt trình độ chuẩn.
Căn cứ quy định trên (còn một số quy định khác liên quan và tương tự nữa), ngoài bằng cấp ra, với các ngành ngoài sư phạm, ứng viên cần có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sự phạm.
Bước 2: Theo khoản 4, Điều 17 Thông tư 06/2012/TT-BGDĐT (Quy chế tổ chức và hoạt động trường THPT chuyên) ngoài bằng tốt nghiệp đại học, ứng viên phải có thêm một trong 4 điều kiện sau: có kết quả tốt nghiệp đại học xếp loại giỏi; có học vị tiến sĩ, thạc sĩ; là giáo viên giỏi ở các trường THPT khác; đã từng là thành viên đội tuyển tham dự kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế.
(2) Đối với các ngành ngoài sư phạm:
Bước 1 làm tương tự như đối với các ngành sư phạm nhưng ứng viên không cần chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm.
Bước 2: Phải có thêm một trong 3 điều kiện sau: có kết quả tốt nghiệp đại học xếp loại giỏi; có học vị tiến sĩ, thạc sĩ; đã từng là thành viên đội tuyển tham dự kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế.
Hệ thống lớp học[sửa | sửa mã nguồn]
Tính cho đến niên khóa 2007 - 2010 Chu Văn An có khoảng trên 2.000 học sinh thuộc 3 khối 10, 11 và 12.[1] Hệ thống lớp học của trường Chu Văn An bao gồm có 11 lớp chuyên: Toán, Lý, Hóa, Tin, Văn, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, Địa, Sử và Sinh. Đây là các lớp được dạy tăng cường (số tiết, khối lượng kiến thức nhiều hơn so với các lớp còn lại) các môn chuyên tương ứng. Học sinh của các lớp chuyên hàng năm có thể tham gia các kì thi học sinh giỏi cấp trường và thành phố. Ngoài ra, trường còn có 1 lớp song ngữ tiếng Pháp (F): đây là lớp thuộc hệ thống lớp song ngữ do Tổ chức Đại học Pháp ngữ (AUF) tài trợ và đào tạo, học sinh sẽ được dạy các môn chính khóa song song tiếng Pháp và tiếng Việt. Đôi khi lớp này được chia đôi sĩ số thành hai lớp F1 và F2. Ngoài các lớp chuyên trên, trường Chu Văn An còn có 7 lớp đào tạo chất lượng cao (từ A1 đến A7). Các lớp hệ B đã được bãi bỏ.
Từ niên khóa 2007 - 2010 Chu Văn An sẽ là trường trung học phổ thông đầu tiên tại Hà Nội mở lớp chuyên tiếng Nhật, đây là đề án hợp tác của Bộ Giáo dục Việt Nam và Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam.[21]
Trong thời gian Bộ Giáo dục còn sử dụng hệ thống giáo dục phân ban (ban Tự nhiên - ban Xã hội) thì hệ thống lớp không chuyên của Chu Văn An được chia thành các lớp A (ban Tự nhiên - ban A) và các lớp C (ban Xã hội - ban C).
Trong niên khóa 2009 - 2012, nhà trường bắt đầu triển khai hệ thống lớp học mới, chia các lớp thành hai nhóm lớp chuyên và không chuyên. Nhóm lớp chuyên có các lớp: Toán, Tin, Nhật, Anh, Văn, Sử, Địa, Pháp 1, Pháp 2 (tăng cường), Lý (từ khóa 2011 - 2014), Hóa (từ khóa 2011 - 2014), Sinh (từ khóa 2011 - 2014). Nhóm lớp không chuyên có các lớp: A1, A2 theo định hướng khối A và D1, D2, D3 theo định hướng khối D.
Kết quả đào tạo[sửa | sửa mã nguồn]
Với tỷ lệ đỗ tốt nghiệp của học sinh thường xấp xỉ 100%, tỷ lệ đỗ đại học trên 70%, trường Chu Văn An được coi là cơ sở đào tạo cấp phổ thông trung học có chất lượng cao ở Hà Nội và Việt Nam.[22] Cụ thể niên khóa 2006 - 2007 học sinh Chu Văn An có tỷ lệ đỗ tốt nghiệp đạt 99,1% (40,59% đỗ loại khá giỏi), tỷ lệ đỗ đại học đạt 78%[23] với điểm thi trung bình 18,77 (xếp thứ 24 toàn quốc).
Trước năm 1986 do là trường duy nhất có lớp chuyên Toán của thành phố Hà Nội nên học sinh Chu Văn An luôn có thành tích tốt trong các kì thi học sinh giỏi quốc gia và quốc tế. Trong các kì thi Olympic Toán Quốc tế, học sinh Chu Văn An đã đạt được 6 huy chương, trong đó có 2 huy chương bạc và 4 huy chương đồng.[17] Từ năm 1986, với việc Sở Giáo dục Hà Nội rút đội ngũ giáo viên và học sinh nòng cốt để thành lập trường chuyên mới Hà Nội - Amsterdam, trường Chu Văn An không còn là trường dẫn đầu về thành tích đào tạo ở Hà Nội.[24]
Vinh dự[sửa | sửa mã nguồn]
Do thành tích dạy và học, trường đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng:[15]
Tuy có cơ sở vật chất vào loại tốt trong số các trường trung học công Hà Nội với một nhà thi đấu đa năng, một sân bóng đá và một sân bóng rổ ngoài trời tuy nhiên phong trào ngoại khóa của trường Chu Văn An không mạnh nếu so với trường chuyên còn lại của Hà Nội là Hà Nội - Amsterdam. Đội bóng đá nam Chu Văn An từng một lần vô địch giải bóng đá trung học phổ thông Hà Nội (năm 2002) còn đội bóng rổ chưa từng vô địch giải trung học phổ thông.[25] Chu Văn An còn một số câu lạc bộ ngoại khóa khác như khiêu vũ cổ điển (từng vô địch giải trung học phổ thông năm 2005), bóng bàn và cờ tướng. Về học thuật, học sinh trong trường có Câu lạc bộ Khoa học trẻ, Câu lạc bộ Kịch (Drama Club), Câu lạc bộ Trò chơi, Câu lạc bộ Lịch sử, Câu lạc bộ Tiếng Anh... Các câu lạc bộ kể trên đa phần hoạt động trong năm, chỉ nghỉ khi chuẩn bị kiểm tra học kỳ hay có yêu cầu từ Ban chấp hành Đoàn trường. Tất cả các hoạt động ngoại khóa của học sinh Chu Văn An đều do Ban chấp hành Đoàn trường Chu Văn An phụ trách.
Hằng năm, trường Chu Văn An thường tổ chức một chuỗi sự kiện,còn được gọi là Sparkling, nhằm tiến đến kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam. Chuỗi sự kiện bao gồm bóng đá nữ, nhảy cổ động (cheerdance) cho nam, cuộc thi "Vẻ đẹp học sinh Chu Văn An (Icon)", Rung chuông vàng và cuộc thi làm video " Chu Văn An trong tôi" của học sinh khối 12. Trong khi tham gia sự kiện, các lớp được chia thành các nhà và được bốc thăm ngẫu nhiên. Sự kiện thường được bắt đầu bằng vòng loại bóng đá nữ và kết thúc bằng đêm chung kết cuộc thi "Vẻ đẹp học sinh Chu Văn An", còn được gọi là đêm Snight.
Chu Văn An có cơ sở vật chất pha trộn giữa phong cách kiến trúc của các nhà học kiểu Pháp đã gần 100 năm tuổi với các công trình mới được xây dựng trong thời gian gần đây nằm trong dự án xây dựng trường điểm quốc gia của chính phủ. Hệ thống nhà học gồm 3 dãy nhà 3 tầng là nhà A, B và E, 2 dãy nhà 1 tầng là nhà C và D đã được xây dựng từ thời Pháp và liên tục được cải tạo trên cơ sở giữ nguyên những nét kiến trúc cổ và tạo điều kiện học tập tốt nhất cho học sinh. Phục vụ cho công tác thực hành thực nghiệm, trường có một nhà học thực nghiệm (nhà T) gồm phòng đa phương tiện (multimedia), phòng đựng giáo cụ trực quan và đồ thí nghiệm, phòng thí nghiệm, một nhà Hội đồng sư phạm (nhà S) gồm phòng Hội đồng các phòng học tiếng và tin học. Về mảng tự học và ngoại khóa của học sinh, trường có một thư viện , phòng truyền thống, một hội trường hiện đại với 200 chỗ ngồi tên là Hội trường Thăng Long, khu nhà thi đấu và các khu luyện tập thể chất ngoài trời, một sân bóng đá, một sân bóng rổ, và vườn trường. Ngoài ra trường còn có ký túc xá dành cho các học sinh ở xa và 3 căng tin: hai căng tin mới ở nhà K (ký túc xá) và căng tin cũ cạnh nhà I (nhà tập). Sân vận động của trường từ 3 sân đất đã được tu sửa trở thành 3 sân cỏ nhân tạo và 2 sân quần vợt. Sân cỏ sau nhà A cũng được xây thành sân bê tông dành cho môn bóng rổ.
Toà nhà cổ kính và đẹp nhất của trường là khu thư viện hay được gọi với cái tên Nhà Bát Giác, được xây dựng từ năm 1898. Ban đầu tòa nhà có tên Biệt thự Schneider (La villa Schneider) lấy theo tên người chủ căn biệt thự, một ông chủ xưởng giấy người Pháp tên là Henri Schneider. Sau đó tòa nhà được dùng làm nơi ở của Hiệu trưởng người Pháp của trường Trung học Bảo hộ. Năm 1999, với sự giúp đỡ tài chính của vùng Île-de-France (Pháp), tòa nhà đã được tu sửa và hiện được dùng làm thư viện của trường.[26] Ngày nay phòng đọc đã được di chuyển xuống tầng hầm, các tầng còn lại được sử dụng làm phòng hiệu trưởng, phòng học đàn và phòng vi tính. Phòng truyền thống của trường vốn ở nhà Bát Giác đã được chuyển tới tòa nhà nằm sau khu Hội trường Thăng Long. Đây nguyên là nơi ở của ông hiệu phó trường trung học bảo hộ mới được xây dựng lại năm 2006.
Ngày 19 tháng 1 năm 2007, trường đã khánh thành bức tượng Danh sư Chu Văn An, một trong các công trình chuẩn bị cho lễ kỉ niệm 100 năm trường Bưởi - Chu Văn An.
Tượng đài Chu Văn An
Sân vận động (ngày xưa)
Vườn hoa chính (ngày xưa)
Với khung cảnh cổ kính nên thơ, trường Chu Văn An đã được chọn làm bối cảnh cho bộ phim 12A và 4H của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên. Nguyên một lớp học đã được chọn làm diễn viên phụ cho bộ phim.[27]
Ngôi trường cũng là bối cảnh cho mối tình tuổi học trò của hai nhân vật chính Kiên và Phương trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.
Giáo viên và cựu học sinh nổi tiếng[sửa | sửa mã nguồn]
Với truyền thống lâu đời của mình, trường Bưởi - Chu Văn An đã là nơi học tập và giảng dạy của rất nhiều danh nhân trên mọi lĩnh vực của Việt Nam. Dưới đây là một số giáo viên và cựu học sinh nổi tiếng của trường Bưởi - Chu Văn An.
- Giáo viên
- Nguyễn Lân, nhà giáo nhân dân
- Nguyễn Phan Chánh, họa sĩ tranh lụa nổi tiếng.
- Dương Quảng Hàm[11] (từ năm 1920 đến năm 1946), nhà nghiên cứu văn học, nhà giáo dục nổi tiếng.
- Hoàng Xuân Hãn (học sinh khóa 1926, giảng dạy từ năm 1936 đến năm 1939), học giả, người soạn thảo Chương trình giáo dục phổ thông đầu tiên của nước Việt Nam dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim
- Nguyễn Văn Huyên[28] (1935 - 1938), nhà nghiên cứu văn hóa, Bộ trưởng Bộ Giáo dục nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong 29 năm.
- Nguỵ Như Kon Tum,[29] (1941 - 1945) nhà vật lý, hiệu trưởng đầu tiên của Đại học Tổng hợp Hà Nội.
- Nguyễn Mạnh Tường,[30] luật sư, người Việt Nam đầu tiên đỗ hai bằng tiến sĩ tại Pháp.
- Nguyễn Xiển,[12] (học sinh khóa 1925, giảng dạy từ năm 1935 đến năm 1937) nhà khí tượng học, Tổng Thư ký Đảng Xã hội Việt Nam.
- Học sinh
- Chính trị - quân sự
- Phan Anh,[13] luật sư, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Vương Văn Bắc,[31] luật sư, Tổng trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa
- Nguyễn Văn Cừ[32] (khóa 1928), Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Trịnh Đình Cửu, một trong những người tham gia thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam.
- Nguyễn Khoa Điềm,[33] nhà thơ, bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam, Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương.
- Phạm Văn Đồng,[34] (khóa 1924), Thủ tướng Việt Nam trong 32 năm.
- Dương Đức Hiền,[35] tổng bí thư đầu tiên của Đảng Dân chủ Việt Nam.
- Đặng Vũ Hiệp (khóa 1941), thượng tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
- Nguyễn Cao Kỳ, Thủ tướng và Phó Tổng thống của Việt Nam Cộng hòa
- Kaysone Phomvihane,[1] Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.
- Souphanouvong,[1] hoàng thân, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
- Lê Trọng Tấn,[36] đại tướng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
- Nguyễn Cơ Thạch,[1] Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- Vũ Xuân Thiều,[16] liệt sĩ - phi công Không quân Nhân dân Việt Nam, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Nguyễn Tiến Sâm, phi công Không quân Nhân dân Việt Nam, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Thứ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải.
- Ngô Gia Tự[37] (khóa 1922), bí thư lâm thời của Xứ ủy Nam Kỳ.
- Khoa học - giáo dục
- Tạ Quang Bửu (khóa 1926), nhà toán học, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- GS, NGND Nguyễn Văn Chiển[38] (khóa 1934), nhà địa chất học, tổng biên tập Tập bản đồ (Atlas) Việt Nam.
- Bùi Huy Đáp[39] (khóa 1931), nhà nông học, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I.
- Đỗ Xuân Hợp, nhà giải phẫu học, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I.
- Nguyễn Đình Ngọc,[40] thiếu tướng Công an Nhân dân Việt Nam, nhà tình báo, Phó Chủ tịch Hội Vô tuyến Điện tử Việt Nam.
- Dương Trung Quốc,[41] nhà sử học, Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, đại biểu Quốc hội.
- Trần Đức Thảo,[42] nhà triết học, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II.
- Lê Văn Lan, giáo sư Sử học, đồng sáng lập Viện Lịch sử Việt Nam.
- Lê Văn Thiêm[43] (khóa 1936), nhà toán học, viện trưởng đầu tiên của Viện Toán học.
- Tôn Thất Tùng,[44] nhà giải phẫu học, giám đốc Bệnh viện Phủ Doãn.
- Nguyễn Khắc Viện[45] (khóa 1932), bác sĩ, nhà văn hóa.
- Văn học - Nghệ thuật
- Bùi Văn Bảo[46] (khóa 1940), nhà giáo, soạn giả.
- Ngô Xuân Diệu (Xuân Diệu) (khóa 1933), nhà thơ, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I.
- Hồ Trọng Hiếu (Tú Mỡ)[13] (khóa 1915), nhà thơ, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II.
- Nguyễn Công Hoan[38] (khóa 1920), nhà văn, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I.
- Nam Trân (khóa 1924) nhà thơ, dịch giả
- Vũ Khắc Khoan nhà văn, nhà viết kịch
- Nguyễn Hiến Lê[47] (khóa 1926), soạn giả, dịch giả.
- Dương Bích Liên,[48] họa sĩ, một trong bộ tứ Sáng - Nghiêm - Liên - Phái.
- Vũ Đình Liên[49] (khóa 1930), nhà thơ, tác giả bài thơ Ông đồ, nhà giáo nhân dân.
- Vương Trí Nhàn[50] (khóa 1958), nhà phê bình văn học, soạn giả.
- Võ An Ninh,[51] nhiếp ảnh gia, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I.
- Hoàng Ngọc Phách[52] (khóa 1914), nhà văn, tác giả tiểu thuyết Tố tâm.
- Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), nhà văn, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Nguyễn Đình Thi[53] (khóa 1941), nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.
- Trần Tiến,[54] nghệ sĩ kịch nói, nghệ sĩ nhân dân.
- Thanh Tùng,[55] nhạc sĩ.
- Tô Ngọc Vân,[56] họa sĩ, một trong bộ tứ Trí - Vân - Lân - Cẩn.
- Lĩnh vực khác
- Trương Gia Bình[57] (khóa 1971), sáng lập viên, chủ tịch hội đồng quản trị công ty FPT.
- Bùi Quang Ngọc[58] (khóa 1970), sáng lập viên, Tổng Giám đốc công ty FPT.
- Hoàng Đạo Thuý, lãnh tụ phong trào Hướng đạo Việt Nam.
- Đặng Thuỳ Trâm[50] (khóa 1958), bác sĩ, liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, tác giả Nhật ký Đặng Thùy Trâm.
- Hoàng Anh Duy, nhà vô địch Én vàng 2009.
- ^ a ă â b c d “Tình hình trường năm học 2005 – 2006”. Trang web chính thức của trường Chu Văn An. Truy cập 15 tháng 5 năm 2013.[liên kết hỏng]
- ^ “Trường Bưởi”. Trang web chính thức của Hà Nội. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ MThu. “Hà nội nghìn năm văn hiến...”. Trang web của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ a ă â b Bayly, Tr.37
- ^ Băng Hồ. “Hồi ký: Hồ Tây - Phúc Nhạc”. Tạp chí Quê Hương. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ Bureau des affaires culturelles - Franco-Indochine. Les œuvres culturelles en Indochine. Rectorat d'académie, Bureau des affaires culturelles. tr. Trang 13.
- ^ Singaravélou, Pierre. “190”. Trong L'Harmattan. L'Ecole française d'Extrême-Orient, ou, L'institution des marges, 1898... L'Harmattan. tr. Trang 382. ISBN 2738481558.
- ^ Nguyễn, Tr. 3
- ^ Kamm, Tr. 34
- ^ Trịnh, Văn Thảo (1995). L'école française en Indochine. KARTHALA Editions. tr. 321. ISBN 2865375722.
- ^ a ă â Lê Văn Ba. “Trường Bưởi - Chu Văn An, những năm tháng đáng nhớ”. báo Hà Nội Mới điện tử. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă “Nguyễn Xiển”. Trang web chính thức của Hải Phòng. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ a ă â Nguyễn Tý. “Tấm chân tình đằng sau những tiếng cười”. Vietnamnet. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ Dommen, Arthur. The Indochinese Experience of the French and the Americans: Nationalism and Communism in Cambodia, Laos, and Vietnam. Bloomington, IN: Indiana University Press, 2001. Trang 341.
- ^ a ă “Trường phổ thông trung học Chu Văn An”. Trang web của Sở Giáo dục - Đào tạo Hà Nội. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ a ă Nguyễn Sĩ Đại. “TRƯỜNG CHU VĂN AN, NƠI NUÔI DƯỠNG TÀI NĂNG VÀ LÒNG YÊU NƯỚC”. Báo Nhân dân cuối tuần ngày 9/10/2005. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă “Thành tích trong các kì thi Olympic Quốc tế của học sinh Chu Văn An”. Hscva.net. Bản gốc lưu trữ 15 tháng 5 năm 2008. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ “Chương trình lễ kỷ niệm 100 năm trường Bưởi - Chu Văn An”. Trang web chính thức của trường Chu Văn An. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă Tuệ Nguyễn. “Thông tin tuyển sinh đầu cấp ở Hà Nội”. Thanh Niên online. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ Nguyễn Hùng. “Công bố chỉ tiêu tuyển sinh lớp 10 năm học 2008-2009”. Dân trí. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Tiếng Nhật được giảng dạy chính thức ở bậc trung học cơ sở”. Hà Nội ngày nay. Truy cập 10 tháng 9 năm 2008.
- ^ Trung Kiên. “Top 100 trường thpt có điểm thi ĐH cao”. Vietnamnet. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Náo nức ngày tựu trường”. báo Hà Nội Mới điện tử. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ . Edu.net.vn title = Kết quả thi học sinh giỏi quốc gia 2008 http://web.archive.org/web/20080309235546/http://edu.net.vn:80/Default.aspx?tabindex=0 title = Kết quả thi học sinh giỏi quốc gia 2008. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Giải bóng rổ trung học phổ thông Hà Nội”. Trang web của Hoa học trò. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ “La Villa Schneider”. Belleindochine.free.fr. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ Vân Thảo. “Gặp lại Hạ trong "12A và 4H" sau 12 năm”. Thế giới điện ảnh. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ . Trang web của Bộ Giáo dục title = Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên http://web.archive.org/web/20141218113422/http://www.moet.gov.vn/?page=6.25 title = Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ “VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ 90 NĂM TRƯỜNG BƯỞI – CHU VĂN AN”. Trang web chính thức của trường Chu Văn An. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Những gương mặt trí thức tiên phong”. Báo Nhân dân điện tử. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ "Luật sư Vương Văn Bắc, nhà ngoại giao đồng hành cùng vận nước" theo RFA
- ^ Nguyễn Hậu. “Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ-Nhà lãnh đạo tài năng”. Trang web chính thức của Bắc Ninh. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ Trần Đăng. “Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: "Bây giờ gió gọi anh đi"”. Báo Bình Định. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Nhân vật lịch sử Quảng Ngãi”. Trang web chính thức của Quảng Ngãi. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ . Cổng thông tin điện tử thành phố Hồ Chí Minh title = Lịch sử tên đường http://web.archive.org/web/20110925050609/http://www.tanphu.hochiminhcity.gov.vn:80/web/tintuc/default.aspx?cat_id=588 title = Lịch sử tên đường. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Lê Trọng Tấn - Người chiến thắng cái chết”. Thanh Niên online. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2006. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Khu lưu niệm đồng chí Ngô Gia Tự”. Trang web chính thức của Bắc Ninh. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă Trần Đồng Quang. “Trường Bưởi - Chu Văn An”. Hanoi.vnn.vn. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ Phạm Thu Phương. “Bùi Huy Đáp - Người sáng tạo vụ lúa xuân ở miền Bắc”. Báo Nhân dân 8/7/1997. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ Bùi Trọng Liễu. “Nhà tình báo Ziệp Sơn và phần đời chưa kể”. Vietnamnet. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ “Giáo sư Tôn Thất Bách qua đời”. Vietnamnet. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ “Người gìn giữ di sản triết học Trần Đức Thảo”. Báo Văn nghệ trẻ, số 9 (536), trang 18, ra ngày 4/3/2007. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ “GS. Lê Văn Thiêm (1918-1991) - Nhà toán học Việt Nam”. Tạp chí Toán học tuổi thơ. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ “SỰ KIỆN”. Vietnamnet. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Một nghị lực phi thường thiết tha vì sự nghiệp giải phóng dân tộc”. "Nửa thế kỷ quảng bá đất nước với thế giới" - Kỷ yếu của Nhà xuất bản Thế giới. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ “The Writers Post”. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ Lê Anh Dũng. “NGUYỄN HIẾN LÊ”. Vanhoanghethuat.org.vn. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ “HỌA SỸ DƯƠNG BÍCH LIÊN (1924 – 1989)”. Trang web của Đảng Cộng sản Việt Nam. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ “Vũ Đình Liên”. Trang thơ Việt Nam. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă Nguyên Ngọc. “Ngọn lửa Thùy Trâm”. Tuổi Trẻ Online. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ Đức Ngọc. “Võ An Ninh: Nhà nhiếp ảnh thế kỷ 20 của Việt Nam”. Trang web của báo Lao động. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Hoàng Ngọc Phách”. Trang web chính thức của Hải Phòng. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ Nguyễn Văn Thành. “CỐT CÁCH VĂN HÓA TRONG SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN ĐÌNH THI”. Vanhoanghethuat.org.vn. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ Trịnh Thanh Sơn. “Chân - thiện - mỹ ở đâu”. Báo Văn nghệ trẻ. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ “Thanh Tùng: 'Mong manh cuộc tình của tôi'”. VnExpress. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ Vân Anh. “Tô Ngọc Vân - Tấm gương cao đẹp về cuộc đời và nghệ thuật”. Báo điện tử Tổ quốc. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ “Chủ tịch FPT: "Tôi rất dễ đam mê..."”. ICT News. Truy cập 15 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ Bài viết của Bùi Quang Ngọc
- Bayly, Susan (2007). Asian Voices in a Post-Colonial Age: Vietnam, India and Beyond. Cambridge University Press. ISBN 0521868858.
- Nguyễn, Đình Hoà; Inh Hoa Nguyen, D. Nguyen (1999). From the City Inside the Red River: A Cultural Memoir of Mid-century. McFarland. ISBN 0786404981.
- Trịnh Văn Thảo (1995). L'école française en Indochine. KARTHALA Editions. ISBN 2865375722.
- Kamm, Henry (1996). Dragon ascending: Vietnam and the Vietnamese. Arcade Publishing. ISBN 1559703067.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét