Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2018

Giải bóng đá vô địch quốc gia Đức – Wikipedia tiếng Việt


Giải bóng đá vô địch quốc gia Đức (tiếng Đức: Fußball-Bundesliga) là hạng thi đấu cao nhất của bóng đá Đức. Giải được tổ chức từ 1903 cho đến nay ngoại trừ thời gian xảy ra các cuộc chiến tranh thế giới (thứ nhất và thứ hai). Tên gọi "Fußball-Bundesliga" chính thức được sử dụng từ mùa bóng 1963 - nay

Thống kê mùa 2011/2012 cho thấy lượng khán giả trung bình vào xem một trận đấu ở Bundesliga là 45.116 người, qua đó giải đấu này trở thành giải vô địch quốc gia có lượng khán giả đi xem trực tiếp đông nhất thế giới.[1] Trong số đó, Borussia Dortmund là đội bóng có lượng khán giả vào sân xem đội bóng thi đấu đông nhất với trung bình 80.521 khán giả mỗi trận trên sân nhà Westfallen.[1]


Chiếc đĩa bạc, giải thưởng của hạng thi đấu bóng đá Bundesliga




Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nền bóng đá của Đức dần được phục hồi. Mở đầu là chức vô địch World Cup vào năm 1954. Nhưng bóng đá Đức sau đó đã không giữ được vị trí của mình, mà giành thất bại liên tiếp ở nhiều trận đấu quốc tế như World Cup 1958, không được tham dự kỳ Euro đầu tiên trong lịch sử năm 1960 và bóng đá Đức cũng không thành công ở kỳ World Cup 1962. Sau chiến tranh, nước Đức chịu ảnh hưởng nặng nề cả về vật chất lẫn tinh thần. Nước Đức bị chia cắt lãnh thổ ra thành hai miền Tây Đức và Đông Đức với hai thể chế chính trị khác nhau. Vào thời kỳ đó, bóng đá Tây Đức vẫn chưa có một giải vô địch thống nhất mà tồn tại đến năm giải đấu riêng lẻ tương đương Premier League ngày nay. Chính vì không có một giải đấu quốc gia chung cộng với sự định hướng không rõ ràng về phong cách đào tạo và huấn luyện đã làm cho bóng đá Tây Đức đi xuống và không phát triển được. Trước những thất bại liên tiếp, Bundesliga, một giải đấu bóng đá thống nhất của Đức chính thức ra đời ngày 28 tháng 7 năm 1962. Tuy nhiên, Bundesliga bắt đầu chính thức thu hút sự chú ý của mọi người và các đội bóng tham dự vào tháng 8 năm 1963.[2]



Chiếc Đĩa bạc, có tên Meisterschale trong tiếng Đức, vẫn được gọi một cách dân dã là "Chiếc đĩa salad", là một cúp luân chuyển được trao tặng từ năm 1949. Đĩa bạc được Giáo sư Elizabeth Tresckow và các sinh viên Đại học Cơ khí Cologne thiết kế và chế tạo vào năm 1949, để thay thế cho chiếc cúp Victoria đã bị thất lạc trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Được làm bằng bạc, phiên bản gốc của Đĩa bạc có đường kính 50 cm, nặng 5,5 kg, gắn 5 viên lớn, 11 viên nhỏ đá quý Tourmalin với tổng trọng lượng 175 carat. Năm 1981 vì hết chỗ để khắc tên, nên cúp này được thêm một vòng ngoài, thêm 5 viên đá nữa, năm 2009 lại được làm lớn thêm hiện tại có đường kính 59 cm, nặng 11 kg. Trên chiếc Đĩa bạc này có khắc tên của các đội bóng, kèm theo năm vô địch quốc gia, từ năm 1903 (VfB Leipzig) cho đến năm 2013 (FC Bayern Munich), hiện tại đủ chỗ cho các đội tới năm 2026.


Các đội vô địch trong lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]




Karl-Heinz „Charly" Körbel

Gerd Müller ký tên lưu niệm vào trái bóng năm 1967, phía sau là Franz Beckenbauer và Werner Olk













































Top 10 Cầu Thủ Ghi Bàn Nhiều Nhất[4]
Cầu Thủ
Giai Đoạn
Câu lạc bộ
Bàn Thắng
1
Gerd Müller
1965–1979
FC Bayern Munich
365 (Ø 0,85)
2
Klaus Fischer
1968–1988
FC Schalke 04
268 (Ø 0,50)
3
Jupp Heynckes
1965–1978
Borussia Mönchengladbach
220 (Ø 0,60)
4
Manfred Burgsmüller
1969–1990
Borussia Dortmund
213 (Ø 0,48)
5
Ulf Kirsten
1990–2003
Bayer 04 Leverkusen
181 (Ø 0,52)
6
Stefan Kuntz
1983–1999
1. FC Kaiserslautern
179 (Ø 0,40)
7
Dieter Müller
1973–1986
1. FC Köln
177 (Ø 0,58)
8
Klaus Allofs
1975–1993
1. FC Köln
177 (Ø 0,42)
9
Hannes Löhr
1964–1977
1. FC Köln
166 (Ø 0,44)
10
Karl-Heinz Rummenigge
1974–1984
FC Bayern Munich
162 (Ø 0,52)

Các kỷ lục khác[sửa | sửa mã nguồn]


Cầu thủ[sửa | sửa mã nguồn]





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét